danh mục sản phẩm
sản phẩm > Paterlax
Paterlax
Liều dùng:- Trẻ em 1-6 tuổi : 1 gói 3 gam, 1 lần/ngày.
- Hỗ trợ phòng chống táo bón, kể cả trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.
- Dùng cho người rối loạn tiêu hóa do loạn khuẩn đường ruột.
Thành phần:
Fructo Oligosaccharide (FOS).....................................................2000 mg
Lactobacillus acidophilus..............................................................9x105 CFU
Clostridium butyricum.................................................................. 9x105 CFU
L-Lysine..........................................................................................40 mg
Kẽm................................................................................................1 mg
Sorbitol............................................................................................25 mg
Tá dược vừa đủ 3g.
Hãng sản xuất: Viện Pasteur Đà Lạt Mô tả sản phẩm: Cơ chế tác dụng
Synbiotics là sự kết hợp của prebiotics và probiotics.
FOS prebiotics bổ sung chất xơ giúp điều hòa chức năng đại tràng, làm mềm và xốp phân, do chất xơ không hấp thu vào máu vì vậy, đây là giải pháp an toàn giúp phòng chống táo bón cho người sử dụng đặc biệt là trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.
Tác dụng đáng chú ý nhất của chất xơ là giúp cải thiện chức năng ruột già. Nhờ khả năng ngậm nước mạnh, chất xơ thực phẩm được xem như thuốc nhuận tràng loại tạo khối phân, giúp bình thường hóa tình trạng phân và số lần đại tiện. Như vậy, tác dụng chính của chất xơ thực phẩm đối với ruột già là chống táo bón và cung cấp năng lượng hoạt động cho tế bào ruột già. Ăn thiếu chất xơ có thể gây rối loạn ruột già. Dùng các loại rau quả có nhiều xơ là một trong những cách tốt nhất để phòng ngừa và điều trị táo bón chức năng. Chất xơ còn là nguồn thức ăn cho vi khuẩn có ích trong đường ruột. Nhờ có Prebiotics mà các vi khuẩn có ích có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, do đó cải thiện hệ tiêu hóa.
Men vi sinh Probiotics là các vi khuẩn có ích đối với cơ thể con người, thường sống trong ruột và đóng một vai trò rất quan trọng ở đuờng tiêu hóa, đặc biệt là hệ tiêu hóa của trẻ. Men vi sinh có nhiệm vụ biến đổi chất xơ thực phẩm, thức ăn chưa tiêu hóa hết ở ruột non thành acid lactic, acetic, butyric, hàng loạt vitamin, axit amin, men, hóc môn và các chất dinh duỡng quan trọng khác. Nó cũng sinh ra các khí như NH3, CO2, H2S… Quá trình biến đổi đó gọi chung là quá trình lên men, mà nhờ nó, thức ăn được tiêu hóa hoàn toàn. Ngoài ra, men vi sinh còn cạnh tranh sống với các vi khuẩn gây bệnh, siêu vi, nấm giúp trẻ lấn át được bệnh tật, kích thích hệ miễn dịch và tăng sức đề kháng cho cơ thể. Nếu hệ vi sinh sinh lý bị mất cân bằng, chưa hoàn chỉnh hoặc hoạt động không bình thuờng, sẽ dẫn tới suy giảm chức năng tiêu hóa, thức ăn không được tiêu hóa hoàn toàn (phân sống, rối loạn hấp thu dinh dưỡng…), loạn khuẩn đường tiêu hóa (tiêu chảy, táo bón…), tạo cơ hội cho một số loại vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm phát triển (tả, lỵ…). Nếu sự mất cân bằng này kéo dài sẽ gây bệnh viêm đại tràng mãn tính, rối loạn tiêu hóa, dẫn đến suy dinh duỡng, giảm miễn dịch ở trẻ.
Lysine giúp trẻ ăn ngon miệng, gia tăng chuyển hóa, hấp thu tối đa dinh dưỡng và phát triển chiều cao. Việc thiếu hụt chất này có thể khiến trẻ chậm lớn, biếng ăn, dễ thiếu men tiêu hóa và nội tiết tố. Lysine là một trong 12 axit amin thiết yếu cần có trong bữa ăn hằng ngày. Nó giúp tăng cường hấp thụ và duy trì canxi, ngăn cản sự bài tiết khoáng chất này ra ngoài cơ thể.
Sản phẩm PATERLAX được phối hợp gồm chất xơ hòa tan, Men vi sinh, Kẽm, L-Lysin tạo nên một công thức chuyên biệt được ưa dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai để phòng chống táo bón.
PATERLAX ở dạng cốm hòa tan có hương cam rất phù hợp cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai sử dụng, có thể pha vào nước uống, cháo, bột hoặc sữa đều thuận tiệ
***Tác dụng có thể khác nhau tùy cơ địa người dùng***
**************
Thông tin tham khảo
Điều trị táo bón ở phụ nữ mang thai
Táo bón là một vấn đề ở đường tiêu hóa xảy ra khá phổ biến trong thời kỳ mang thai, nhất là ở những tháng cuối. Theo một số nghiên cứu gần đây, khoảng 11-35% số phụ nữ mang thai bị táo bón trong 3 tháng cuối, tuy nhiên chỉ có khoảng 1,5% số trường hợp phải dùng thuốc nhuận tràng.
Táo bón có thể mới xuất hiện hoặc đã có từ trước nhưng nặng lên trong thời kỳ mang thai. Các nghiên cứu trên cả người và động vật cho thấy, giảm nhu động ruột do những thay đổi về nội tiết trong thời kỳ mang thai là yếu tố quan trọng gây ra táo bón trong giai đoạn này. Các nguyên nhân khác bao gồm uống viên sắt để bù sắt, chế độ ăn ít chất xơ, giảm hoạt động thể lực, sự chèn ép của thai và yếu tố tâm lý.
Về điều trị, cần khuyên người bệnh tạo thói quen đi ngoài đều đặn, tốt nhất là vào buổi sáng và sau các bữa ăn vì lúc này đại trực tràng có nhu động mạnh nhất. Ngoài ra, người bệnh cần lưu ý uống nhiều nước, ăn tăng chất xơ và có chế độ vận động phù hợp.
Các chất xơ từ ngũ cốc, cam, chanh và cây họ đậu có tác dụng kích thích hệ vi khuẩn đường ruột và hiệu quả khá tốt trong điều trị táo bón. Với những biện pháp không dùng thuốc này, biểu hiện táo bón thường bắt đầu giảm dần sau 3-5 ngày và hết hẳn sau 2-3 tuần.
Thuốc chống táo bón cần được sử dụng khi những biện pháp nêu trên không tác dụng, các thuốc này thường có hiệu quả tương đối sớm, sau 1-3 ngày. Nhiều loại thuốc chống táo bón có thể được sử dụng an toàn cho phụ nữ có thai như: sorbitol, lactulose, polyethylene glycol, senna (cây muồng)…
Tuy nhiên, sorbitol và lactulose có thể gây chướng bụng, đầy hơi, buồn nôn và nôn. Ngoài ra, do có chứa cả đường galactose và lactose nên lactulose cần được dùng thận trọng ở những người bị tiểu đường.
Các thuốc tránh dùng cho phụ nữ có thai bao gồm dầu thầu dầu (vì có thể gây co cơ tử cung) và các loại muối tăng thẩm thấu như magne sulfate (vì có thể gây rối loạn nước, điện giải).
BS. Nguyễn Hữu Trường
Táo bón ở phụ nữ mang thai
DS. Thân Mỹ Linh
Thông tin thuốc, phòng Dược lâm sàng – BV Từ Dũ
I. Tổng quan về bệnh táo bón ở phụ nữ mang thai:
Định nghĩa:
Theo NIDDK (National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases), táo bón được định nghĩa lâm sàng khi có bất kỳ hai trong số những triệu chứng sau đây trong ít nhất 12 tuần nhưng không cần liên tục trong vòng 12 tháng trước đó
- Căng thẳng trong thời gian đi tiêu
- Phân cứng và khô
- Cảm giác đi tiêu không trọn vẹn
- Cảm giác bị tắc nghẽn hoặc bị cản trở
- Đi tiêu ít hơn 3 lần mỗi tuần
Nguyên nhân thường gây táo bón ở phụ nữ có thai
- Do hormon thai kỳ là progesterone gây dãn và làm giảm hoạt động của nhu động ruột.
- Sử dụng viên sắt bổ sung
- Mệt mỏi, hạn chế vận động
- Quá trình phát triển của thai nhi cũng làm gia tăng áp lực lên khung xương chậu, gây sung huyết, làm tình trạng táo bón gia tăng.
- Các yếu tố làm trầm trọng hơn tình trạng táo bón: nghén, đã từng bị táo bón trước đó, mắc hội chứng ruột kích thích (IBS).
Hậu quả
- Chèn ép, loét trực tràng
- Nứt hậu môn, phì đại ruột già, bệnh trĩ.
- Xoắn ruột, ung thư biểu mô ruột kết.
II. Phòng ngừa và điều trị táo bón ở phụ nữ mang thai:
1. Biện pháp không dùng thuốc
- Để cải thiện tình trạng táo bón trong thai kỳ, các bà mẹ nên có chế độ ăn cân bằng, bổ sung nhiều chất xơ như đậu, cám, ngũ cốc, trái cây tươi và rau xanh.
- Uống nhiều nước đồng thời tránh những đồ uống có chứa chất kích thích.
- Tập thể dục nhẹ nhàng, thường xuyên.
- Dành thời gian và tập thói quen đi tiêu đều đặn.
- Hiện nay một loại thực phẩm được khuyến khích sử dụng để tránh táo bón ở phụ nữ có thai đó là synbiotics.
Vài nét về synbiotics
Synbiotics là sự kết hợp của probotics và prebiotics.
Probiotics bao gồm những vi sinh vật sống có vai trò thiết lập cân bằng vi sinh vật đường ruột: chúng chiếm chỗ và trung hòa độc tố của các vi khuẩn có hại, sản xuất các vitamin và men tiêu hóa các chất, tăng cường tạo các kháng thể giúp nâng cao khả năng miễn dịch …
Prebiotic tự bản thân không tiêu hóa được nhưng có ảnh hưởng tốt cho cơ thể con người bằng cách kích thích sự tăng trưởng của các vi khuẩn có lợi. Prebiotics được xem là thức ăn của những vi khuẩn sống có lợi cho sức khỏe. Thành phần của prebiotics là các oligosaccharides có cấu tạo là chuỗi 3-10 đơn vị đường đơn như: galactose, fructose, glucose... Các oligo-saccharide này không được thủy phân trong ruột non nên còn được gọi là chất xơ trong khẩu phần ăn. Các nguồn thực phẩm giàu prebiotics bao gồm: ngũ cốc, tỏi, trái cây, hành tây, các loại đậu, các loại hạt, mật ong
Ưu điểm của prebiotics
- Nguồn cung cấp thức ăn cho các probiotics.
- Tăng sức đề kháng với các vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
- Kích thích miễn dịch đường tiêu hóa.
- Tăng hấp thu Canxi và khoáng chất do trong quá trình lên men tại ruột già, các oligosaccharid sản sinh ra các axit béo chuỗi ngắn, tạo môi trường axit nhẹ ở ruột già.
- Quá trình lên men cũng sản sinh ra khí hơi và nước có tác dụng làm cho phân mềm và xốp phòng chống táo bón, đồng thời tăng cường khả năng kháng vi khuẩn bằng cách giảm bớt số vi khuẩn nội sinh trong đường ruột qua việc đào thải phân mỗi ngày.
Nhiều nhãn hiệu sữa và bột dinh dưỡng của các công ty Vinamilk, Bibica, Yakult, Dutch Lady, Abbott, Nutifood đã có bổ sung probiotic và prebiotic.
2. Các nhóm thuốc nhuận tràng:
PGS.TS Nguyễn Đức Vy - Phó Chủ Tịch Hội Sản Phụ Khoa VN
Một số lưu ý chung khi sử dụng thuốc nhuận tràng
- Không nên tự ý sử dụng các thuốc nhuận tràng để tránh rơi vào vòng lẩn quẩn: hết táo bón nhờ thuốc nhuận tràng thì bệnh nhân không cảm giác mắc đi tiêu trong nhiều ngày và lại táo bón cần tiếp tục dùng thuốc nhuận tràng.
- Chỉ nên sử dụng thuốc nhuận tràng khi người bệnh đã cố gắng thay đổi chế độ ăn, lối sống nhưng vẫn không có hiệu quả.
- Khi sử dụng các thuốc nhuận tràng điều quan trọng là người bệnh cần phải uống nhiều nước để tăng hiệu quả của thuốc đồng thời tránh bị táo bón dội ngược.
Sử dụng thuốc nhuận tràng ở phụ nữ có thai
- Nhóm thuốc ưu tiên sử dụng: nhuận tràng cơ học, nhuận tràng thẩm thấu.
- Nhóm thuốc hạn chế sử dụng: nhuận tràng làm trơn, nhuận tràng làm mềm phân
- Chống chỉ định: nhuận tràng kích thích (dầu thầu dầu) do làm tăng co bóp tử cung gây sảy thai hoặc sinh non.
2.1. Nhuận tràng cơ học
PGS , TS Nguyễn Viết Tiến - Chủ tịch hội sản phụ khoa VN
Các chất trong nhóm này gồm: cellulose, agar-agar, hemicellulose, gomme sterculia…
Đặc điểm: không hoà tan, không hấp thu trong ruột, có khả năng hấp thu nước và làm tăng thể tích phân.
Thời gian khởi đầu tác dụng: 1 – 3 ngày.
Liều dùng
Hoạt chất |
Biệt dược |
Liều dùng |
Methylcellulose |
Citrucel® |
1–2g x 1-3 lần/ngày |
Psylium |
Konsyl®, metamucil® |
3,5–7g x 1-3 lần/ngày |
Polycarbophil |
Fibercon® |
1g x 1-4 lần/ngày |
Chú ý
- Do cơ chế tạo khối nên thuốc có thể cản trở sự hấp thu của một số chất.
- Thuốc có thời gian khởi phát tác động chậm nên chỉ sử dụng để dự phòng và điều trị táo bón mãn tính.
- Thuốc chỉ tác động tại chỗ nên ưu tiên sử dụng cho phụ nữ có thai.
- Đối với một số người, thuốc có thể gây phình ruột và trung tiện.
2.2 Nhuận tràng thẩm thấu
Đặcđiểm: là các chất không hấp thu, có tính thẩm thấu gây giữ nước trong lòng ruột.
Thời gian khởi phát tác động:
1. Muối natri, muối magie, glycerin, sorbitol
Dạng thụt trực tràng: 15 – 30 phút
Dạng uống:2 – 6 giờ
2. Lactullose, macrogol 4000: 1 – 3 ngày
Dạng dùng và liều dùng:
- Các muối natri, magie thường được bào chế dạng kết hợp 2 hay nhiều chất
Sorbitol + Natri citrate + nước cất (Bibonlax®)
Monobasic Na phosphat + dibasic Na phosphat (Fleet phospho soda®)
- Glycerin (Rectiofar®)
Thụt trực tràng dung dịch 60% : 3ml
- Sorbitol:
Dung dịch uống 70%: 15ml
Thụt trực tràng dung dịch 25%: 120ml
- Lactullose (Duphalac®): 1-2 gói/ngày có thể tăng lên đến 4 gói
- Macrogol 4000 (Forlax® 4000): 1-2 gói/ngày
Chú ý
- Không sử dụng lâu dài các chế phẩm muối Natri cho phụ nữ có thai bị cao huyết áp
- Muối phosphat là giảm calci huyết và tăng phosphat huyết nên thận trọng khi sử dụng muối phosphat cho người có bệnh tim, co giật, giảm calci huyết
2.3. Nhuận tràng kích thích
Cơ chế: làm tăng nhu động ở ruột non (dầu thầu dầu) hoặc ruột già (anthraquinon, bisacodyl, picosulfate …)
Thời gian khởi phát tác động: 6- 12 giờ sau khi uống
Liều dùng thay đổi theo từng bệnh nhân.
Chỉ định:
Giảm co thắt khi đi tiêu (sau phẫu thuật…)
Giảm cảm giác đau (có thương tổn ở hậu môn: nứt hậu môn, trĩ…)
Các chất anthraquinon, bisacodyl, picosulfate được phân loại nhóm B cho phụ nữ có thai.
2.4. Nhuận tràng làm trơn
Đặcđiểm: dầu parafin là chất có độ nhớt cao, tác động chủ yếu ở ruột già, làm cho phân trong ruột trơn hơn, giảm căng thẳng do đi tiêu ở người mắc bệnh tim mạch.
Thời gian khởi đầu tác dụng: 1-3 ngày.
Hạn chế sử dụng cho phụ nữ có thai do:
- Dầu parafin ảnh hưởng tới sự hấp thu các thuốc tan trong dầu và các vitamin tan trong dầu.
- Không nên uống dầu parafin trước khi đi ngủ hoặc ở tư thế nằm (do nếu qua đường hô hấp sẽ gây ra bệnh viêm phế quản không điển hình)
2.5. Nhuận tràng làm mềm phân
PGS . TS Nguyễn Đức Hinh - Phó Chủ Tịch Hội Sản Phụ Khoa VN
Đặc điểm: muối docusate là các chất diện hoạt có khả năng nhũ hoá khối phân, làm mềm phân do mỡ và nước trộn lẫn trong phân.
Sử dụng nhằm tránh phản xạ rặn ở bệnh nhân do bệnh lý tim mạch, sau phẫu thuật...
Thời gian khởi phát tác dụng: 1-3 ngày.
Liều dùng:
- Phòng ngừa táo bón: 50-360mg/ngày (docusate natri), 240 mg (docusate kali).
- Thụt tháo trực tràng: 50-120mg.
Tác dụng phụ: đau dạ dày, tiêu chảy, buồn nôn.
Phân loại nhóm C cho phụ nữ có thai.
Tương tác thuốc
Không sử dụng kết hợp docusate và dầu parafin do docusate là chất diện hoạt làm tăng hấp thu dầu parafin trong lòng ruột gây ngộ độc gan.
Chứng táo bón ở trẻ nhỏ
Đây là một bệnh khá phổ biến ở trẻ nhỏ và các bậc cha mẹ thường rất lúng túng. Đa phần là tình hình sẽ nhanh chóng được cải thiện, chỉ đôi khi tình trạng táo bón trở nên xấu đi nhưng rất hiếm.
Thế nào là đại tiện bình thường?
Một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường sẽ “ngồi bô” một ngày mấy lần nhỉ? Thông thường thì các bé trong độ tuổi 1 – 4 sẽ đại tiện từ 1 – 2 lần/ngày. Tuy nhiên, có bé đi cầu 3 lần/ngày, ngược lại có trẻ đi cầu không theo ngày nào cả. Tất cả đều bình thường. Đối với những trẻ có sức khỏe tốt, bé có thể 3 ngày mới đi cầu một lần.
Kích thước và lượng chất thải của các bé cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào những gì trẻ ăn uống hằng ngày.
Làm sao để biết trẻ bị táo bón?
Dấu hiệu trẻ bị táo bón:
- Bé dường như rất khó khăn để có thể đi cầu.
- Có cảm giác đau khi đi cầu, có thể cảm nhận qua hành động ngại đi cầu, ngồi nhón chân của trẻ.
- Chất thải rất cứng và khô.
Nguyên nhân gây ra táo bón
Không đủ lượng nước và chất xơ trong chế độ dinh dưỡng là nguyên nhân phổ biến nhất.
Nứt hậu môn là một nguyên nhân phổ biến khác. Vết nứt hậu môn là vết rạn trên da ở bờ hậu môn và điều này làm cho việc đi cầu gây ra đau đớn và trở thành cực hình.
Thường thì chứng táo bón xuất hiện sau khi trẻ trải qua một thời gian viêm nhiễm, không khỏe. Trong khi bị ốm, bé thường không uống đủ lượng nước cần thiết khiến chất thải trở nên rắn và rất khó di chuyển. Những chất thải này sẽ gây xước hậu môn và là nguyên nhân gây ra bệnh nứt hậu môn.
Thêm vào đó, nỗi sợ giáo viên hoặc sợ toi-let bẩn sẽ góp phần dẫn tới chứng táo bón.
Bị rối loạn tiêu hóa, chẳng hạn như tiêu chảy cũng khiến hệ tiêu hóa còn non của trẻ mất cân bằng và không thể tự kiểm soát, kết quả là dẫn tới chứng táo bón. Đây có thể là do trẻ lo lắng sợ ị ra quần.
Rối loạn cảm xúc cũng được xem là một nguyên nhân nếu bé sống trong bầu không khí gia đình thường xuyên căng thẳng.
Việc điều trị bằng thuốc men thường không gây ra chứng táo bón ở trẻ nhỏ (dù có thể gây táo bón cho người lớn) nhưng đôi khi một số loại siro ho có thể gây ra hiện tượng này.
Dị ứng với sữa bò thường được chẩn đoán trong hầu hết các trường hợp rối loạn đường ruột ở trẻ nhỏ. Với một số trẻ, nó có thể gây ra hiện tượng táo bón. Nếu ai đó trong gia đình từng hen suyễn hoặc chàm bội nhiễm thì cũng có thể nghĩ tới nguyên nhân dị ứng sữa.
Chứng táo bón đôi khi xảy ra khi một đứa trẻ sơ sinh chuyển từ bú mẹ sang uống sữa bò hoặc sữa công thức.
Giúp trẻ bị táo bón như thế nào?
Cần trao đổi với bác sĩ về tình trạng của bé nếu con bạn chưa được 1 tuổi.
Nếu bé trên 1 tuổi, bạn có thể thử một trong các cách sau:
- Khuyến khích trẻ uống thật nhiều nước nhưng không nên uống nước ngọt và nước có ga bởi vì chúng sẽ làm hỏng men răng.
- Khuyến khích bé uống nhiều loại nước: nước trắng, nước hoa quả pha loãng và sữa (ở một số trẻ, uống quá nhiều sữa cũng có thể gây tác dụng ngược, làm cho tình trạng táo bón nặng thêm). Nước mận, lê và táo chứa rất nhiều đường sorbitol, đặc biệt tốt cho đường ruột của bé.
- Với trẻ sống ở vùng ôn đới, lượng nước cần uống mỗi ngày là 1,5l/trẻ 4 - 6 tuổi và 2l/trẻ từ 7 tuổi trở lên. Tất nhiên, trẻ sống ở vùng khí hậu nhiệt đới cần uống nhiều nước hơn.
- Tăng lượng chất xơ trong chế độ dinh dưỡng. Điều này dường như rất khó thực hiện bởi một khảo sát cho thấy 29 - 48% trẻ em bị táo bón là do “ăn uống cầu kỳ” và 47% có hiện tượng ăn kém ngon miệng.
Ăn uống là yếu tố quan trọng để cải thiện tình trạng táo bón. Hãy giải thích với trẻ rằng bạn cần phải thay đổi chế độ dinh dưỡng để bé dễ đi cầu hơn nhưng không nên tạo ra quá nhiều sự khác biệt với chế độ ăn của cả nhà. Tốt nhất là cả gia đình cùng ăn những thực phẩm đó và cố gắng ăn 5 loại rau quả/ngày.
Đừng vội hạn chế sữa trong chế độ dinh dưỡng trẻ mà không trao đổi trước với bác sĩ bởi nó có thể dẫn tới việc thiếu hụt dinh dưỡng. Khoảng 50% trẻ em bị dị ứng với sữa bò và cũng thường dị ứng luôn với các protein trong đậu nành. Vì thế việc chuyển từ sữa bò sang sữa đậu nành chưa hẳn đã là giải pháp tốt.
Ăn sáng sớm. Đối với nhiều trẻ, bữa sáng có tác dụng kích thích nhu động ruột. Nếu ăn sáng sớm, trẻ sẽ có nhiều thời gian để dành cho việc đi cầu sau đó ngay tại nhà thay vì đến trường (bởi nhiều trẻ rất ngại đi cầu ở trường).
Nên cho trẻ ngồi ghế ị riêng thay vì ngồi bồn cầu người lớn bởi vì ngồi thẳng, 2 chân chạm đất sẽ giúp trẻ đi cầu dễ dàng hơn.
Đừng cho trẻ uống thuốc nhuận tràng nếu không có chỉ định của bác sĩ.
Khi nào cần tới bác sĩ?
Nên đưa bé đi khám bác sĩ nếu bé dưới 1 tuổi.
Nếu bé lớn tuổi hơn, bạn nên cố gắng tìm nguyên nhân tại sao bé táo bón và thử điều chỉnh. Khi tình trạng không chuyển biến, lúc đó mới cần tới sự tư vấn của bác sĩ.
Bạn không nên chậm trễ trong việc đưa trẻ tới bác sĩ nếu bạn nhận thấy rằng mình trở nên bực bội với chuyện táo bón của trẻ. Trẻ bị táo bón có thể làm bạn vô cùng nản lòng khi liên tục suy/lấy bô mà bé không ị. Nhưng táo bón không phải là lỗi của trẻ và càng không phải là sự cố ý. Điều quan trọng là phải hết sức kiên nhẫn. Hãy nghĩ rằng thế nào bé cũng phải ị bởi chất thải sẽ tích đầy trong bụng và trẻ sẽ có cảm giác muốn đi cầu. Khi đó, thậm chí bạn còn phải hỗ trợ bé bằng cách ngâm hậu môn bé trong nước ấm để kích thích phản xạ đi cầu của bé. Hơn thế, bị tiêu chảy mới thực sự là vấn đề lớn còn táo bón cũng chỉ là hiện tượng nhất thời mà thôi.
Bác sĩ có thể làm gì
Bác sĩ sẽ kiểm tra để xem thể chất bé có vấn đề gì không. Bác sĩ sẽ quyết định có phải dùng thuốc nhuận tràng hay không.
Với thuốc nhuận tràng, một chu trình của nó thường kéo dài khoảng 3 tháng và sẽ giảm liều dần dần.
Ts.Bs.Ngô Huy Toàn
Táo bón ở trẻ em và cách điều trị
Táo bón là tình trạng thường gặp ở trẻ em. Làm sao để ngăn ngừa cũng như xử lý tình trạng táo bón của bé tại nhà? Bác sĩ Hoàng Lê Phúc, Trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Đồng 1-TP.HCM sẽ giúp phụ huynh hiểu rõ hơn những thắc mắc xung quanh vấn đề trên.
Bác sĩ Lê Hoàng Phúc , Trưởng khoa tiêu hóa bệnh viện Nhi Đồng 1 , TP.HCM
Trẻ đi tiêu như thế nào gọi là táo bón?
Thông thường, trong tuần lễ đầu sau sinh, trẻ thường đi cầu khoảng 4 lần/ngày, phân của trẻ mềm hoặc lỏng (thường gặp ở trẻ bú mẹ nhiều hơn trẻ bú bình).
Ba tháng đầu sau sinh, trẻ bú mẹ thường đi cầu phân mềm khoảng 3 lần/ngày; một số trẻ bú mẹ đi cầu sau mỗi lần bú; đặc biệt một số trẻ chỉ đi cầu một lần trong suốt cả tuần, thậm chí cả 12 ngày. Hầu hết các trẻ bú mẹ hiếm khi bị táo bón. Trong khi đó, ở lứa tuổi này, trẻ bú bình thường đi cầu từ 2-3 lần/ngày, dù điều này còn tùy thuộc vào loại sữa công thức bé uống. 2 tuổi trở lên, trẻ chỉ còn đi cầu từ1-2 lần mỗi ngày.
Trong khi đó, trẻ bị táo bón có số lần đi cầu ít hơn bình thường, đi cầu phân cứng hay phân to, bài tiết khó khăn và đau. Nếu tình trạng này kéo dài hơn 2 tuần được gọi là táo bón mạn (tính), trước thời gian này được gọi là táo bón cấp (tính).
Dấu hiệu nhận biết:
Trẻ có thể khóc khi cố gắng rặn hay đi cầu ít lần hơn trước đó, nghĩa là trẻ đi cầu 1 lần/ 1-2 ngày so với thói quen trước đó là 3-4 lần/ ngày
Trẻ nhỏ hơn 12 tháng: Trẻ bị táo bón thường đi cầu có phân trông cứng và giống như các viên bi tròn nhỏ (còn gọi là phân dê). Trẻ có thể khóc khi cố gắng rặn hay đi cầu ít lần hơn trước đó, nghĩa là trẻ đi cầu 1 lần/ 1-2 ngày so với thói quen trước đó là 3-4 lần/ ngày. Cần lưu ý ở lứa tuổi này, các cơ thành bụng còn yếu nên bé thường rặn khi đi cầu, làm cho mặt bé đỏ lên. Do đó nếu bé đi phân mềm sau vài phút rặn thì không phải bị táo bón.
Trẻ nhỏ có thể uốn cong lưng, khép chặt mông và khóc.
Trẻ mới biết đi sẽ lắc lư tới lui trong khi gồng chân và mông, uốn cong lưng, nhón gót, vặn vẹo, bồn chồn, có thể ngồi chồm hổm, hoặc có tư thế bất thường.
Trẻ lớn hơn: Nếu trẻ đi cầu ít lần hơn bình thường hoặc than đau khi đi cầu, có thể trẻ đang bị táo bón.Ví dụ: bình thường bé đi cầu 1-2 lần mỗi ngày, nếu đến 2 ngày mà trẻ vẫn chưa đi thì có thể trẻ bị táo bón.
Nhiều bé bị táo bón đã hình thành “thói quen” bất thường là nín nhịn để giữ phân lại khi chúng cảm thấy mắc đi cầu.
Trẻ em lớn có thể trốn ở một góc hoặc một nơi nào khác trong khi thực hiện việc này.
Hậu quả của táo bón
Dù những động tác trên nhìn giống như trẻ đang cố gắng để đi cầu, nhưng sự thật trẻ cố để không đi cầu vì một số lý do: chúng không có một nơi cảm thấy “thoải mái”, hoặc trẻ “bận bịu” và bỏ qua nhu cầu đi vệ sinh. Khi đi cầu, việc này có thể làm trẻ đau nên trẻ nín luôn để tránh bị đau hơn. Đôi khi, trẻ có thể bị rách hậu môn (giới y khoa gọi là nứt hậu môn) sau khi đi phân to và cứng. Đau do rách hậu môn có thể dẫn đến sự nín đi cầu.
Thậm chí, trẻ có thể học cách nín luôn vì sợ đau. Cần lưu ý phát hiện hành vi này để phòng ngừa hoặc điều trị sớm táo bón cho trẻ. Nếu trẻ bị “bỏ quên” hay “thoát” khỏi sự kiểm soát, sẽ dễ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của táo bón: rặn nhiều và làm rách hậu môn gây đau, chảy máu. Do đó, trẻ càng sợ lại càng nín nhiều hơn.nhịn để khỏi đi cầu, khiến phân ở lâu trong cơ thể càng lớn và càng khô cứng, đến khi đi cầu phải
Khi bé bị đau bụng dữ dội hãy đưa bé đến ngay bệnh viện
Cuối cùng, khối phân đóng cứng trong trực tràng (phần cuối cùng của ống tiêu hóa nối với lỗ hậu môn) lớn dần khiến trẻ không thể giữ được phân nữa nên làm són phân ra quần (dân gian thường gọi là ị đùn). Theo thời gian, phần phân lỏng (mới hình thành sau các bữa ăn) hoặc phân kích thích trực tràng len ra ngoài khiến trẻ thực sự xấu hổ và sợ hãi nên sẽ thu mình lại không tham gia các hoạt động trường lớp như các bạn cùng lứa.
Sau một tuổi, trẻ bị táo bón phần lớn đều do nguyên nhân chức năng, nghĩa là không do bệnh lý gì cả mà chỉ do “hậu quả” của hành vi nín giữ ở trên. Khoảng 5% trẻ bị táo bón là do các bệnh lý thực thể. Táo bón do bệnh lý thường không tự hết, hay kèm theo các biểu hiện bất thường khác và trẻ thường suy dinh dưỡng. Có rất nhiều nguyên nhân như ruột già của trẻ quá to, hẹp hậu môn, rối loạn vận động ruột do bất thường thần kinh, bệnh nội tiết chuyển hóa, bệnh thần kinh, cơ… Đối với nhóm nguyên nhân này cần điều trị bệnh tận gốc mới hết táo bón.
Táo bón thường xảy ra vào 3 thời điểm sau: khi trẻ bắt đầu ăn bột ngũ cốc và trái cây nghiền; suốt thờigian tập ngồi bô/bàn cầu và sau khi bắt đầu đi học.
Khi nào đưa trẻ đến bệnhviện?
Khi trẻ bị táo bón, biện pháp tốt nhất là nên đưa bé đi khám và nghe theo ý kiến bác sĩ về việc điều trị táo bón. Ngoài ra, cần đưa trẻ đến ngay cơ sở y tế khi có các dấu hiệu sau:
* Đi ngay: khi bé đau bụng dữ dội
• Bé nhỏ hơn 4 tháng chưa đi tiêu sau hơn 24 giờ so với bình thường (ví dụ bình thường bé đi tiêu 2ngày/lần, nhưng đã 3 ngày vẫn chưa đi tiêu)
• Bé nhỏ hơn 4 tháng đi tiêu phân cứng thay vì mềm hoặc sệt.
• Bé đi tiêu phân có máu.
• Bé đau khi đi tiêu.
• Bé đã bị nhiều đợt táo bón.
• Hoặc khi phụ huynh cảm thấybất an.
Bác sĩ Hoàng Lê Phúc
Trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Nhi Đồng 1-TP.HCM
CHỐNG TÁO BÓN BẰNG MEN VI SINH
Tình trạng chống táo bón kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của trẻ như biếng ăn, chậm lớn, đầy bụng, khó tiêu, lâu dần sẽ dẫn tới còi xương, suy dinh dưỡng. Đồng thời, độc tố bị tích lại trong ruột có thể bị hấp thụ trở lại trong máu gây bệnh khác cho trẻ. Dưới đây là những thông tin hữu ích giúp trẻ tránh xa táo bón.
GS TS Dược học . Hoàng Tích Huyền , nguyên trưởng khoa Dược Lý , ĐH Y Hà Nội
Yếu tố thường gây táo bón cho trẻ
Các yếu tố làm trẻ dễ bị táo bón là: chế độ ăn không cân bằng, thiếu chất xơ; vừa đổi chế độ ăn (sữa mẹ chuyển sang sữa bò, thức ăn mềm sang thức ăn cứng); do trẻ uống không đủ nước; trẻ tự nín khi có cảm giác đại tiện vì sợ đau, do ham chơi, sợ chỗ lạ; đôi khi sau một stress như: bệnh tật, đổi chỗ ở, chuyển trường, chuyển lớp, trẻ cũng bị táo bón.
Hậu quả của táo bón
Trẻ bị táo bón dài ngày hoặc thường xuyên sẽ dẫn đến hậu quả không tốt cho sức khỏe và sự phát triển bình thường như:
· Bị nứt hậu môn, sa trực tràng do rặn và ngồi chờ lâu, chảy máu trực tràng do phân quá rắn, dẫn tới bệnh trĩ.
· Trẻ bị táo bón thường có cảm giác khó chịu, chướng bụng, đầy hơi, chán ăn và mệt mỏi toàn thân dẫn đến trẻ biếng ăn, chậm lớn, còi xương, suy dinh dưỡng.
· Những chất độc trong phân cần được thải ra ngoài hàng ngày bị tích lại trong ruột có thể bị hấp thu trở lại trong máu gây hại cho sức khoẻ của trẻ.
Vai trò của men vi sinh (Probiotic) và chất xơ (Prebiotic) đối với bệnh táo bón
Men vi sinh là các vi khuẩn có ích đối với cơ thể con người, thường sống trong ruột và đóng một vai trò rất quan trọng ở đuờng tiêu hóa, đặc biệt là hệ tiêu hóa của trẻ. Men vi sinh có nhiệm vụ biến đổi chất xơ thực phẩm, thức ăn chưa tiêu hóa hết ở ruột non thành acid lactic, acetic, butyric, hàng loạt vitamin, axit amin, men, hocmon và các chất dinh duỡng quan trọng khác. Nó cũng sinh ra các khí như NH3, CO2, H2S… Quá trình biến đổi đó gọi chung là quá trình lên men, mà nhờ nó, thức ăn được tiêu hóa hoàn toàn. Ngoài ra, men vi sinh còn cạnh tranh sống với các vi khuẩn gây bệnh, siêu vi, nấm giúp trẻ lấn át được bệnh tật, kích thích hệ miễn dịch và tăng sức đề kháng cho cơ thể.
Nếu hệ vi sinh sinh lý bị mất cân bằng, chưa hoàn chỉnh hoặc hoạt động không bình thuờng, sẽ dẫn tới suy giảm chức năng tiêu hóa, thức ăn không được tiêu hóa hoàn toàn (phân sống, rối loạn hấp thu dinh dưỡng…), loạn khuẩn đường tiêu hóa (tiêu chảy, táo bón…), tạo cơ hội cho một số loại vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm phát triển (tả, lỵ…). Nếu sự mất cân bằng này kéo dài sẽ gây bệnh viêm đại tràng mãn tính, rối loạn tiêu hóa, dẫn đến suy dinh duỡng, giảm miễn dịch ở trẻ.
Tác dụng đáng chú ý nhất của chất xơ là giúp cải thiện chức năng ruột già. Nhờ khả năng ngậm nước mạnh, chất xơ thực phẩm được xem như thuốc nhuận tràng loại tạo khối phân, giúp bình thường hóa tình trạng phân và số lần đại tiện. Như vậy, tác dụng chính của chất xơ thực phẩm đối với ruột già là chống táo bón và cung cấp năng lượng hoạt động cho tế bào ruột già. Ăn thiếu chất xơ có thể gây rối loạn ruột già. Dùng các loại rau quả có nhiều xơ là một trong những cách tốt nhất để phòng ngừa và điều trị táo bón chức năng.
Chất xơ (Prebiotic) còn là nguồn thức ăn cho Probiotic (vi khuẩn có ích trong đường ruột). Nhờ có Prebiotic mà các vi khuẩn có ích có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn, do đó cải thiện hệ tiêu hóa.
Paterlax do viện Pasteur sản xuất có công thức kết hợp Prebiotics (chất xơ) và Probiotics (Men vi sinh)– Giúp trẻ hết táo bón
Để bảo vệ sức khỏe và sự tăng trưởng toàn diện của trẻ, cần thiết phải giúp bé khỏi hoàn toàn táo bón. Để đạt được điều này cần phải thực hiện đồng thời các biện pháp sau:
· Chế độ dinh dưỡng hàng ngày phải hợp lý: Cân đối về dinh dưỡng, bảo đảm đủ chất xơ, uống đủ nước.
· Giúp trẻ bài tiết chất bã của quá trình tiêu hóa bằng sự đại tiện bình thường: tập thói quen đại tiện hàng ngày bằng cách xoa bụng, tăng vận động cơ thể, tạo cảm giác thoải mái khi đại tiện.
· Sử dụng sản phẩm Paterlax: sản phẩm này chứa rất nhiều loại vi khuẩn có ích (Probiotics) giúp bé tiêu hóa được hoàn toàn thức ăn hàng ngày. Paterlax còn có một thành phần rất quan trọng là chất xơ (Prebiotics), ngoài nhiệm vụ là nguồn thức ăn hữu ích cho hệ men vi sinh, nó còn giúp chống táo bón hiệu quả cho trẻ. Sử dụng Paterlax hàng ngày giúp cho hệ tiêu hóa của trẻ khỏe mạnh, cải thiện tận gốc chứng táo bón. Lưu ý, trong quá trình uống Paterlax, bệnh táo bón của trẻ sẽ được cải thiện từ từ nhưng bền vững, đồng thời bé sẽ ăn ngon miệng, hấp thu dưỡng chất tốt và tăng cân sau khoảng 2 tuần sử dụng.
Giáo sư.Tiến sĩ dược.Hoàng Tích Huyền
Nguyên trưởng khoa dược lý-Trường Đại học Y Hà nội